Văn Hoá Đa Sắc

Một đặc sản nghe rợn người nhưng lại là “cực phẩm” trên mâm cơm người Mường

MCS- Có những món ăn chỉ cần nghe tên thôi đã khiến nhiều người rùng mình, nhưng khi nếm thử lại mở ra cả một thế giới hương vị. Ẩm thực miền núi Thanh Hóa chính là minh chứng, với đặc sản nòng nọc om măng rừng – món ăn khiến không ít thực khách vừa e ngại vừa tò mò.

Ở xứ Thanh, đồng bào Mường từ lâu đã coi nòng nọc hay còn gọi là “bu bu” như món “lộc trời” ban tặng. Từ khe suối mát lành, những chú nòng nọc béo mẫm được chế biến cùng măng rừng, tạo nên món ăn mang đậm hương vị núi rừng, khiến thực khách một lần thử khó có thể quên.

Nòng nọc – “lộc trời” từ khe suối mùa mưa

Người Mường gọi nòng nọc là “bu bu” hoặc “bâu bâu”. Khác với nòng nọc thường thấy ở vùng đồng bằng, loài này được sinh ra từ ếch đá sống trong các khe suối vùng cao. Vào mùa mưa, khoảng tháng 6 đến tháng 11 âm lịch, chúng xuất hiện nhiều, tròn trịa, có con to đến bằng ngón tay, thịt mềm ngọt và đặc biệt bổ dưỡng.

món ăn nghe “rợn tóc gáy” nhưng lại mang trọn hương vị núi rừng khó cưỡng.
Món ăn nghe “rợn tóc gáy” nhưng lại mang trọn hương vị núi rừng khó cưỡng.

Người dân bản địa thường tranh thủ sáng sớm hoặc chiều muộn để bắt nòng nọc, khi dòng nước trong vắt và yên ả. Dụng cụ giản đơn chỉ là chiếc dậm tre, rổ và vài lá khoắn làm mồi nhử. Người khéo tay chỉ cần kiên nhẫn một lát là đã có cả rổ nòng nọc mang về chế biến.

Công phu từ khâu sơ chế đến chế biến

Sơ chế nòng nọc là công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ. Người dân phải rửa sạch, gẩy nhẹ để loại bỏ phần ruột, rồi chà muối nhiều lần để hết nhớt. Sau khi ráo nước, nòng nọc có thể biến hóa thành nhiều món: chiên giòn làm đồ ăn vặt, nướng sả ớt thành mồi nhậu, hay nấu canh rau rừng thanh mát.

Tuy nhiên, “ngôi sao” trong thực đơn vẫn là nòng nọc om măng – món ăn đặc trưng và giàu dấu ấn văn hóa ẩm thực của đồng bào Mường.

Nòng nọc sau khi bắt về phải qua khâu sơ chế khá tốn công
Nòng nọc sau khi bắt về phải qua khâu sơ chế khá tốn công.

Măng rừng được thái nhỏ, xào cùng mẻ để dậy lên vị chua nhẹ, rồi thêm nước sôi làm nước dùng. Khi nồi nước sôi lăn tăn, nòng nọc được thả vào, đun liu riu đến khi chín tới. Khi bắc xuống, người ta không quên rắc thêm chút rau thơm: hành, răm, mùi tàu.

Bát nòng nọc om măng nghi ngút khói, thoang thoảng hương mẻ chua, vị măng đắng nhẹ quyện cùng vị béo ngọt của nòng nọc, tạo nên sự hòa quyện lạ lẫm. Với những ai đủ dũng cảm vượt qua ánh nhìn ban đầu, cảm giác ngạc nhiên và thích thú khi thưởng thức là điều khó quên.

Từ bữa ăn chống đói đến đặc sản bản địa

Người dân bản địa kể rằng, trước kia vì thiếu thốn, đồng bào mới tận dụng nòng nọc làm nguồn thực phẩm. Nhưng chính từ sự khéo léo và sáng tạo ấy, món ăn đã trở thành một phần văn hóa ẩm thực.

Bát canh “lạ lùng” giữa núi rừng
Bát canh “lạ lùng” giữa núi rừng.

Ngày nay, nòng nọc om măng không chỉ hiện diện trong bữa cơm gia đình mà còn xuất hiện trong các dịp tiếp khách. Với chén rượu nồng cay, món ăn này trở thành “linh hồn” của mâm cơm Mường, khiến nhiều thực khách phương xa ngỡ ngàng khi nếm thử và phải thốt lên rằng: “Kỳ lạ mà ngon khó tả!”.