Tôi về quê vào đúng những ngày nắng như thiêu như đốt. Không phải cái nóng sôi sục đổ lửa kiểu thành phố, mà là thứ nắng của miền quê rộng, dai, và rát như mặt đất đang thở bằng những luồng hơi vàng rực.
Mẹ mở cửa đón tôi, mồ hôi đã rịn qua áo bà ba. Bà cười bảo: “Nắng vậy chứ mai là mát thôi con à”. Nhưng tôi biết, quê mình luôn vậy có những mùa hè kéo dài như thể chẳng muốn rời đi, mà người ta vẫn sống chậm rãi cùng nó, không kêu than, không vội vã.
Tôi gần như chẳng ra khỏi nhà. Không cần ai nhắc, chính cái nóng cũng khiến tôi lui về góc quen thuộc nơi phòng cũ nơi có khung cửa gỗ đã tróc sơn, bệ cửa lặng lẽ hứng nắng suốt bao năm. Tôi nằm đó, gối đầu lên tay, mắt nhìn xuyên qua song cửa, để thấy khoảnh vườn sau nhà đang rực rỡ dưới nắng trưa.
Cây vẫn xanh như thời thơ bé. Chỉ khác là tôi đã lớn, và không còn chạy chân đất ra vườn tìm bắt chuồn chuồn như xưa. Vẫn bụi chè tàu mẹ tỉa gọn gàng, vẫn hàng cau cao vút in bóng xuống sân, và xa xa là mảnh đất trống nơi tôi từng chôn một lá thư hồi mười tuổi, viết gửi “tương lai”.

Nắng trải đầy, mà lòng tôi lại thấy dịu. Có lẽ vì nơi đây, không cần điều hòa mát lạnh hay wifi mạnh, cũng chẳng có âm thanh của xe cộ dồn dập chỉ có tiếng ve, tiếng mẹ xới cơm dưới bếp, và tiếng lòng mình trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Quê, trong những ngày hè nóng rát, bỗng trở thành một nơi để trú ngụ không chỉ khỏi nắng, mà khỏi những ồn ào đã nuốt mất tôi trong suốt những tháng ngày trước đó. Tôi nhận ra, đôi khi người ta chẳng cần đi đâu để thấy bình yên. Chỉ cần nằm im bên khung cửa sổ, thở một hơi thật sâu, và để ánh nắng nhắc lại những điều mình từng quên.
Mỗi vệt nắng rơi xuống sân dường như đều có tiếng nói. Có tiếng của tuổi thơ, tiếng của sự chậm rãi mà thành phố đã lấy mất, và tiếng của những mùa hè không vội nơi người ta không đếm ngày bằng lịch, mà đong đếm bằng cảm xúc lặng thầm.
Tôi vẫn nằm đó, không hối hả, không cần lý do. Như thể tôi cần ở đây để được nắng chiếu vào lòng làm khô đi những hoang mang, và hong nhẹ lại những mảnh ký ức đã nhàu.
